Chuyện ít người biết về cưới hỏi thời bao cấp: Băng rôn trên tường luôn có khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”

Những mẩu chuyện nhỏ về phong tục, tập quán cưới hỏi thời “ông bà ta” chắc chắn khiến nhiều người cảm thấy lạ lẫm.

Cưới hỏi ở Hà Nội

Hà Nội xưa là kinh đô rồi sau đó là thủ đô, lại có nhiều cơ sở sản xuất hàng thủ công, buôn bán phát triển, có đông tầng lớp trung lưu và trí thức nên cưới hỏi cũng có phần khác.

Trong lễ vật ăn hỏi mang sang nhà gái, không thể thiếu cốm và hồng, gia đình khá giả còn thêm lợn sữa quay. Tục này bị phê phán là phong kiến nên bị bãi bỏ vào năm 1946.

Trong thập niên 20, lễ vật ăn hỏi còn có thêm thuốc lá điếu. Năm 1920 Hà Nội mời cưới bằng thiếp, kèm theo gói chè nhỏ và hạt sen, người khởi xướng là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi khi ông tổ chức cưới con. Và đám cưới này cũng là đám cưới đầu tiên không tổ chức ở tư gia mà tổ chức ở khách sạn.

Nghi thức đám cưới thời xưa

Từ những năm 1920 đến năm 1940, Hà Nội có tục mừng đám cưới bằng đôi câu đối. Chữ thì thuê các nhà Nho viết rồi mang ra phố Hàng Trống thuê thợ thêu.

Đầu những năm 1930 lệ đón và đưa dâu bằng xe song mã được thay bằng ô tô. Xe được trang trí hoa và kết dây băng bằng lụa màu. Đi sau ô tô là đoàn xe tay của nhà trai và nhà gái. Chú rể cũng không mặc áo dài lam đeo thẻ ngà mà nhiều người mặc comple. Cũng trong thập niên này một số đám cưới đã chụp ảnh làm kỷ niệm.

Cỗ cưới ở Hà Nội rất được chú trọng. Với nhà giàu, mâm cỗ bao giờ cũng phải đủ bốn bát, sáu đĩa. Vì theo quan niệm xưa con số 10 tượng trưng cho sự đầy đặn và cũng là lời chúc hạnh phúc cho đôi vợ chồng mới. Sáu đĩa bao gồm: Một đĩa thịt gà da vàng ruộm, một đĩa thịt lợn quay xếp hình cánh hoa đều tăm tắp, một đĩa giò, một đĩa chả quế, đĩa xôi gấc và đĩa nộm thập cẩm. Bốn góc mâm là bốn bát canh gồm: Bát măng ninh chân giò, bát mọc thả nấm, chim bồ câu hầm hạt sen và bát mực nấu rối. Canh mực nấu rối là thử thách với người nấu cỗ, nó gồm: Xu hào, cà rốt thái chỉ, trứng tráng thái chỉ, giò lụa thái chỉ, mực khô thái chỉ xào cháy cạnh. Nhà sang còn có thêm hoa quả tráng miệng hay đĩa chè kho.

Minh họa mâm cỗ cưới miền Bắc thời xưa

Cỗ cưới nhà nghèo ít đĩa ít bát hơn nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc, hai món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc. Phòng cưới xuất hiện ở Hà Nội vào năm 1932, không phải đáp ứng cho các gia đình có diện tích chật chội hay theo văn minh của Pháp mà nó xuất phát từ nhu cầu của người nông thôn ra Hà Nội làm thuê lấy nhau. Họ không dám nhờ nhà người quen. Người đầu tiên có sáng kiến này là nhà Cả Tròn ở 21 phố Phùng Hưng, cho thuê phòng cưới và chỗ ngủ với giường, chiếu, chăn… được bày biện rất lịch sự.

>>> Xem thêm: Gay cấn như đi… toilet thời bao cấp: Ám ảnh “đến kiếp sau cũng không thể quên”

Cưới đời sống mới và cưới thời chiến

Năm 1958, miền Bắc đi theo con đường XHCN nên thách cưới, mâm cao cỗ đầy, đón dâu bằng ô tô… bị cho là lối sống của chế độ thực dân, phong kiến phải loại bỏ ra khỏi đời sống. Khái niệm cưới đời sống mới ra đời, nghi lễ và nghi thức đơn giản, cỗ cưới chỉ mời người thân, không mời cả làng cả tổng.

Thời kỳ này Hà Nội thực hiện cải tạo tư bản tư doanh, nhiều nhà sợ bị quy thành phần tư sản hay tiểu tư sản thành thị chỉ làm cỗ nhỏ. Thậm chí có gia đình chỉ làm tiệc ngọt gồm bánh kẹo, thuốc lá và nước chè mời khách.

Một cảnh rước dâu thời xưa

Năm 1964 Mỹ đ.ánh ph.á miền Bắc bằng máy bay nên đã sinh ra cưới thời chiến. Do kinh tế khó khăn, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” nên tiêu chuẩn cho một đám cưới gồm: 2kg kẹo, 1kg chè, 2 tút thuốc lá Tam Đảo hoặc Trường Sơn, 1 đôi chiếu và chiếc màn đôi bằng vải xô. Thuốc lá mang sang nhà gái còn nhà trai hút thuốc cuộn. Trừ một số ít người làm cơ quan, xí nghiệp có thể mượn ô tô đi đón dâu, còn lại các đám cưới đón bằng xe đạp.

Dù cưới hay ở nhà, tại hội trường cơ quan, xí nghiệp thì phông đều có chữ lồng tên cô dâu và chú rể, có thêm đôi chim câu mớm mỏ nhau cắt bằng giấy. Băng rôn trên tường là khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Thắm tình Tổ quốc, đẹp tình ta”.

Những chiếc băng rôn là không thể thiếu

Phần lớn chú rể đều mặc quần Âu, áo sơ mi trắng “cắm thùng”, đi dép xăng đan còn cô dâu có khi là áo dài, nhưng cũng có người quần lụa, áo sơ mi trắng. Cưới thời chiến nhưng vẫn giữ nếp có phù dâu, phù rể, đốt pháo Trúc Bạch. Cũng giống cưới đời sống mới, cưới thời chiến cũng có văn nghệ “cây nhà, lá vườn”. Ai hát xong được hội hôn tặng một tràng vỗ tay còn nhận được 1 chiếc kẹo mềm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *